Lịch sử và quá trình phát triển Chữ_tượng_hình_Ai_Cập

Chữ tượng hình xuất hiện từ các truyền thống nghệ thuật tiền văn tự Ai Cập. Ví dụ, các biểu tượng trên đồ gốm Gerzean từ khoảng 4000 năm trước Công Nguyên giống với chữ tượng hình. Trong nhiều năm văn tự chữ tượng hình sớm nhất là tấm bảng đá Narmer, được tìm thấy trong những cuộc khai quật tại Hierakonpolis (Kawm al-Ahmar hiện đại) trong thập niên 1890, đã được xác định niên đại khoảng 3200 năm trước Công Nguyên. Tuy nhiên, vào năm 1998 một đội khảo cổ Đức dưới sự lãnh đạo của Günter Dreyer tiến hành khai quật ở Abydos (Umm el-Qa'ab hiện đại) đã khám phá ra hầm mộ U-j của một nhà cai trị thời Tiền triều đại, và thu được ba trăm miếng đất sét có những hình tiền chữ tượng hình, có niên đại ở thời kỳ Naqada IIIA thế kỷ thứ XXXIII trước Công Nguyên.[1][2] Câu đầy đủ đầu tiên được viết bằng chữ tượng hình cho tới hiện tại được tìm thấy trên một dấu niêm phong chìm ở hầm mộ của Seth-Peribsen tại Umm el-Qa'ab, có niên đại từ Vương triều thứ hai. Ở thời kỳ cổ vương quốc, Trung vương quốcTân vương quốc, có khoảng 800 bản chữ tượng hình. Ở thời Hy Lạp-La Mã, họ đã tính được hơn 5,000 bản.[3]

Nói chung các học giả tin rằng chữ tượng hình Ai Cập "bắt đầu tồn tại một thời gian ngắn sau ký tự Sumer, và... có thể [từng]... được phát minh dưới sự ảnh hưởng của ký tự này..." [4] Ví dụ, đã có lời nói rằng "có lẽ ý tưởng chung của các từ thể hiện của một ngôn ngữ viết đã được đưa tới Ai Cập từ Mesopotamia Sumer." [5][6] Mặt khác, cũng có người cho rằng "bằng chứng về sự ảnh hưởng trực tiếp như vậy vẫn còn chưa rõ" và rằng "một cuộc lý lẽ đáng tin cậy cũng có thể được tiến hành cho sự phát triển độc lập của chữ viết tại Ai Cập..." [7] Given the lack of direct evidence, "no definitive determination has been made as to the origin of hieroglyphics in ancient Egypt." [8]

Chữ tượng hình gồm ba kiểu nét khắc: nét khắc ngữ âm, gồm những chữ phụ âm riêng có thể hoạt động như một chữ cái; dấu tốc ký, thể hiện các hình vị; và các từ hạn định, làm hẹp nghĩa của một dấu tốc ký hay các từ ngữ âm.

Chữ tượng hình của một bia mộ Ai Cập

Khi chữ viết phát triển và trở nên rộng rãi trong dân cư Ai Cập, các hình thức nét khắc đơn giản đã phát triển, dẫn tới các chữ viết thầy tu (thầy tế) và bình dân (dân cư). Các biến thể đó cũng thích hợp hơn chữ tượng hình khi sử dụng trên giấy cói. Tuy nhiên, chữ viết tượng hình không biến mất, mà tồn tại bên cạnh các hình thức khác, đặc biệt tại các đền đài và ở hình thức chữ viết chính thức khácc. Đá Rosetta có các văn bản song song bằng chữ tượng hình và chữ bình dân.

Chữ tượng hình tiếp tục được sử dụng trong thời cai trị Ba Tư (gián đoạn ở thế kỷ thứ VI và thế kỷ thứ V trước Công Nguyên), và sau khi Alexander chinh phục Ai Cập, trong thời Macedonia tiếp sau và các thời kỳ La Mã. Có lẽ chất lượng sai lạc của các lời chú giải của các nhà văn Hy Lạp và La Mã về chữ tượng hình đã xảy ra, ít nhất trong quá khứ, như một sự đối phó với sự thay đổi tình hình chính trị. Một số người tin rằng chữ tượng hình có thể đã hoạt động như một cách phân biệt 'người Ai Cập thực sự' với những kẻ chinh phục nước ngoài. Một lý do khác có thể là sự từ chối tiếp nhận một nền văn hóa nước ngoài nói chung có đặc trưng ở những sự tiếp cận Hy Lạp-La Mã tới văn hóa Ai Cập. Biết rằng chữ tượng hình là hình thức viết thần thánh, các học giả Hy Lạp-La Mã đã tưởng tượng ra hệ thống phức tạp nhưng có lý như một hệ thống biểu tượng, thậm chí là ma thuật để chuyển tải các kiến thức bí mật và bí ẩn.

Tới thế kỷ thứ IV, ít người Ai Cập có khả năng đọc chữ tượng hình, và sự bí ẩn của các chữ tượng hình biểu tượng lên tới đỉnh điểm. Việc sử dụng chữ tượng hình tại các đền đài đã chấm dứt sau khi tất cả các đền không thuộc Thiên Chúa giáo bị đóng cửa năm 391 Công Nguyên theo lệnh của vị Hoàng đế La Mã Theodosius I; đoạn văn cuối cùng được biết là từ Philae, được gọi là Bản khắc Esmet-Akhom, từ năm 396.[9]

Sự giải mã chữ tượng hình

Ở thế kỷ thứ V Hieroglyphica của Horapollo xuất hiện, giải mã không chính xác tới 200 chữ khắc. Phần lớn thông tin đều sai, tác phẩm này càng khiến việc giải mã chữ tượng hình Ai Cập gặp khó khăn hơn. Tuy giới học giả ban đầu nhấn mạnh nguồn gốc Hy Lạp của tài liệu này, những tác phẩm gần đây đã công nhận những dấu vết của tri thức đích thực, và cho rằng nó là một nỗ lực của giới trí thức Ai Cập nhằm cứu vãn một quá khứ đã không thể khôi phục. Hieroglyphica là nguồn ảnh hưởng lớn tới chủ nghĩa tượng trưng Phục hưng, đặc biệt là emblem book (sách biểu tượng) của Andrea Alciato, và gồm cả Hypnerotomachia Poliphili của Francesco Colonna.

Những nỗ lực đầu tiên được biết đến trong việc giải nghĩa chữ tượng hình Ai Cập đã được các nhà sử học Hồi giáo thực hiện thời Trung cổ Ai Cập trong thế kỷ thứ IX và thế kỷ thứ X. Khi ấy, chữ tượng hình từ lâu đã bị quên lãng tại Ai Cập, và đã được thay thế bởi chữ Copticchữ cái Ả Rập. Dhul-Nun al-MisriIbn Wahshiyya là những nhà sử học đầu tiên ít nhất có thể giải nghĩa một phần những thứ được viết bằng chữ tượng hình Ai Cập cổ,[10] bằng cách liên hệ chúng với ngôn ngữ Coptic thời ấy được các thầy tế Giáo hội Thiên Chúa cổ Ả Rập sử dụng.[11]

Đá Rosetta tại Bảo tàng Anh

Nhiều học giả hiện đại đã tìm cách giải nghĩa các chữ tượng hình trong nhiều thế kỷ, đáng chú ý là Johannes Goropius Becanus ở thế kỷ XVI và Athanasius Kircher ở thế kỷ XVII, nhưng tất cả chúng đều không thành công. Đột phá thực sự trong việc giải nghĩa chữ tượng hình bắt đầu với sự phát hiện Phiến đá Rosetta của quân đội Napoleon năm 1799 (trong thời Napoleon xâm lược Ai Cập). Đầu thập niên 1800 các học giả như Silvestre de Sacy, Johan David ÅkerbladThomas Young đã nghiên cứu các chữ trên hòn đá, và có được một số tiến triển. Cuối cùng, Jean-François Champollion giải nghĩa được hoàn toàn chữ tượng hình Ai Cập trong thập niên 1820:

Đây là một hệ thống phức tạp, viết biểu trưng, biểu tượng, và ngữ âm cùng lúc, trong cùng văn bản, cùng câu, hầu như tôi có thể nói trong cùng từ.[12]

Đây là một thắng lợi lớn cho ngành Ai Cập học non trẻ.

Chữ tượng hình còn tồn tại đến ngày nay dưới hai hình thức: Trực tiếp, thông qua nửa tá chữ khắc Bình dân được thêm vào bảng chữ cái Hy Lạp khi viết chữ Coptic; và gián tiếp, như cảm hứng cho bảng chữ cái nguyên thuỷ hầu như là nguồn gốc của mọi bảng chữ cái từng được sử dụng, gồm cả chữ cái La tinh.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chữ_tượng_hình_Ai_Cập http://www.exn.ca/egypt/story.asp?st=Lifestyles http://www.aldokkan.com/art/hieroglyphics.htm http://www.findarticles.com/p/articles/mi_qa3657/i... http://www.greatscott.com/hiero/ http://www.isidore-of-seville.com/hieroglyphs/ http://www.jimloy.com/hiero/e-dict.htm http://muslimheritage.com/topics/default.cfm?Artic... http://www.muslimheritage.com/topics/default.cfm?A... http://www.p22.com/products/hieroglyphic.html http://academic.memphis.edu/egypt//l0039.gif